Nghiên cứu - Trao đổi

Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 - Dấu ấn lịch sử và bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam

Ngày Đăng: 23/11/2020 8:16 Lượt xem: 475

80 năm đã trôi qua, nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23/11/1940 vẫn để lại dấu ấn đậm nét đối với nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Nam bộ nói riêng. Diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc khởi nghĩa vũ trang có phạm vi rộng nhất và mức độ quyết liệt nhất kể từ khi Pháp đánh chiếm Lục tỉnh Nam Kỳ đến thời điểm đó. Mặc dù thất bại nhưng tầm vóc, ý nghĩa lịch sử cũng như bài học kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa đã đi cùng dân tộc trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay, những bài học ấy vẫn còn nguyên giá trị.
 
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, cuối tháng 9/1940, phát xít Nhật kéo quân vào Đông Dương, Pháp chống cự yếu ớt sau đó bắt tay với Nhật, Nhân dân Việt Nam lâm vào tình thế “một cổ hai tròng”. Tháng 11/1940, bọn quân phiệt Thái Lan theo lệnh phát xít Nhật tiến đánh Campuchia. Thực dân Pháp bắt lính Nam Bộ ra trận làm bia đỡ đạn cho chúng. Căm thù thực dân Pháp và được cổ vũ bởi tiếng súng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nhân dân Nam Bộ sục sôi tranh đấu.
Tháng 11 năm 1939, Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Bà Điểm (Hóc Môn - Gia Định), đề ra chủ trương “Cách mạng giải phóng dân tộc” bằng hình thức “bạo động” để giành chính quyền. Đầu năm 1940, Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ do đồng chí Võ Văn Tần làm Bí thư đã vạch ra Đề cương chuẩn bị bạo động, đưa ra các hoạt động tự phát vào phong trào chống thực dân Pháp và tay sai dưới sự lãnh đạo của Đảng, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11 năm 1940 họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) nhận định: Điều kiện ở Nam Kỳ và cả nước chưa chín muồi, vì vậy đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa, sau đó Trung ương phái đồng chí Phan Đăng Lưu quay trở về để hoãn cuộc khởi nghĩa. Sau khi về đến Sài Gòn, đồng chí Phan Đăng Lưu bị địch bắt. Trong thời điểm đó Xứ ủy Nam Kỳ đã phát lệnh khởi nghĩa khắp nơi không thể thu hồi.
Đáng tiếc hơn nữa, kế hoạch của cuộc khởi nghĩa đã bị địch biết trước ít ngày. Tối ngày 22/11/1940, đồng chí Tạ Uyên, Bí thư Xứ ủy mới thay đồng chí Võ Văn Tần đã bị bắt từ ít tháng trước và một số đồng chí khác trong Thành ủy Sài Gòn sa lưới mật thám. Pháp ra lệnh cấm trại binh lính người Việt và tước vũ khí của số người có ý định phản chiến. Kế hoạch định lấy tiếng súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn vào lúc 24 giờ ngày 22/11/1940 làm súng lệnh đã không thành công. 
Đêm 22 rạng sáng ngày 23/11/1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra khí thế mạnh mẽ và quy mô lớn chưa từng có. Khắp vùng nông thôn Nam bộ rung chuyển, cụ thể: Từ Biên Hòa đến Cà Mau, 18 tỉnh nổi dậy cướp chính quyền. Ở Mỹ Tho, 54 trong số 56 xã được giải phóng. Tại Hóc Môn (Gia Định) cách Sài Gòn 20km, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mười Đen - Xứ ủy viên, du kích vây đồn, chặn đánh địch tiếp viện ở Cầu Bông, giết tên ác ôn chánh xứ tỉnh Tây Ninh và một số lính, thu 15 súng rồi kéo lên Truông Mít (Tây Ninh). Ở Cần Giuộc, Bến Lức, Long An đội du kích của đồng chí Nguyễn Thị Bảy đã làm cho bọn địch kinh sợ phải gọi chị là "Bà Chúa Đỏ". Ở Vũng Liêm (Vĩnh Long), đội du kích và quần chúng chiếm đồn địch trong 3 ngày, làm chủ quận lị. Ở Mỹ Tho, hàng ngàn du kích do Bí thư tỉnh ủy chỉ huy bức rút 2 đồn, phá hoại gần 10 km đường bộ, 14 cầu, ngăn 6 con sông, bóc đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho. Ngày 14 tháng 12 năm 1940, địch phải dùng thủy, lục, không quân tiến công Mỹ Tho nhưng mãi đến ngày 14 tháng 01 năm 1941 chúng mới chiếm lại được và đẩy du kích vào Đồng Tháp Mười…
Giặc Pháp điên cuồng đàn áp, khủng bố rất khốc liệt, dã man. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt, tính từ ngày 22/11 đến ngày 31/12/1940 thực dân Pháp đã gây ra hơn 5.000 vụ bắt bớ, hàng ngàn người bị xử tử, tù đày, tra tấn vô cùng tàn bạo. Các đồng chí lãnh đạo, những người con ưu tú của dân tộc, của Đảng, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai... đã bị giặc Pháp xử bắn. Tấm gương hy sinh dũng cảm của các đồng chí mãi mãi sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi được tin Nam Kỳ khởi nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra thông báo khẩn cấp, chỉ thị cho các địa phương chia lửa với Nam Kỳ. Từ việc rải truyền đơn, bãi khóa, bãi thị đến việc phát động du kích, nếu có điều kiện phá đường, cầu cống ngăn quân thù đàn áp.
Khởi nghĩa Nam kỳ là dấu ấn nổi bật, trang sử oanh liệt của miền Nam “đi trước về sau” trên suốt chặng đường cách mạng của đất nước. Tuy bị thất bại, nhưng nhân dân đã tận mắt chứng kiến những đảng viên Đảng Cộng sản là những chiến sĩ yêu nước kiên cường nhất, anh dũng nhất, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng để giành độc lập. Qua trận thử lửa này, nhiều cán bộ của Đảng được rèn luyện, thử thách, quần chúng càng gắn bó với Đảng, càng tôi luyện chí khí cách mạng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, trung thành với giai cấp và dân tộc. Đó là đặc tính cao quý của những người cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng và tính chất tổ chức, đó là yếu tố quyết định thắng lợi cuộc tổng khởi nghĩa mùa thu năm 1945, chỉ 5 năm sau đó.
Khởi nghĩa Nam Kỳ là cơ sở thực tiễn để Đảng hoàn thiện con đường chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Từ kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Sơn, Nam Kỳ, Binh biến Đô Lương, Đảng đã có những bước đi cẩn trọng, chu đáo trong đánh giá, xác định thời cơ, chuẩn bị lực lượng… đi tới giải phóng toàn dân tộc. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chẳng những đã để lại những bài học kinh nghiệm lớn lao, mà còn để lại cho toàn thể dân tộc ta một vật báu thiêng liêng, tiêu biểu cho truyền thống cách mạng anh dũng của dân tộc. Đó là lá cờ đỏ sao vàng qua năm 1941 đã trở thành lá cờ đại đoàn kết của Mặt trận Việt Minh, kêu gọi toàn dân ta đứng lên đánh Pháp, đuổi nhật. Cờ đỏ sao vàng là cờ Tổng khởi nghĩa thắng lợi năm 1945 được Đại hội Quốc dân tại Tân Trào chọn làm Quốc kỳ và đến năm 1946 thì ngọn cờ vinh quang đó đã được Quốc hội khóa I phê chuẩn là Quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả những điều vinh quang ấy đã nói lên được vị trí lịch sử của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940.
Khởi nghĩa Nam Kỳ để lại những bài học kinh nghiệm quý báu, đó là: Bài học về cụ thể hóa đường lối của Đảng phù hợp với thực tiễn địa phương; bài học về công tác chuẩn bị các điều kiện cần và đủ cho một cuộc khởi nghĩa nổ ra có thể giành được thắng lợi; bài học về xây dựng đội quân chủ lực, xác định rõ các lực lượng phối hợp của cuộc khởi nghĩa và đánh giá đúng vai trò của các lực lượng; bài học về việc giữ vững sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và quần chúng; bài học về tính khoa học của kế hoạch lãnh đạo khi tiến công và thoái thủ; dự trù các phương án thắng - thua và khả năng giải quyết nếu khởi nghĩa thất bại; kế hoạch rút lui bảo toàn cơ sở và lực lượng.
Hướng tới Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng, ôn lại Khởi nghĩa Nam Kỳ nhằm phát huy tinh thần và những bài học kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, các cấp, các ngành cần nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của đất nước, trọng tâm là:
- Tập trung xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nghiên cứu, phân tích, nhận định tình hình thế giới và trong nước, nắm chắc, tận dụng thời cơ đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Không ngừng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thành nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh tổ chức các phong trào thi đua yêu nước gắn với thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước trong từng thời kỳ nhằm tích cực phát huy vai trò của quần chúng Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tăng cường củng cố, xây dựng lực lượng quốc phòng - an ninh vững chắc,; đồng thời, chú trọng công tác bảo vệ bí mật Nhà nước, kịp thời phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa các hoạt động phá hoại, đánh cắp thông tin, bí mật nhà Nước của các thế lực thù địch, phản động, gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng; đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chạy chức, chạy quyền; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tổ chức Đảng thực sự tiên phong, gương mẫu, trước hết là người đứng đầu; làm cho Nhân dân tin yêu và gắn bó máu thịt với Đảng. 
 
Thạc sĩ Phùng Thị Hà
Phó Trưởng khoa Xây dựng Đảng

Các tin liên quan:

Thông tin lý luận và thực tiễn

TUYÊN TRUYỀN

Liên kết web

Đếm số lượng truy cập

Tổng số lượt truy cập: 8282786

Đang Online : 836