Nghiên cứu - Trao đổi
Đầu tư đường giao thông nông thôn Tuyên Quang giai đoạn 2021-2025: Kết quả thực tiễn từ một quyết sách chiến lược
Ngày Đăng: 30/6/2025 10:5 Lượt xem: 55
Giao thông nông thôn là một trong những yếu tố nền tảng, giữ vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội toàn diện ở khu vực nông thôn. Không chỉ là phương tiện kết nối không gian địa lý, giao thông còn là điều kiện tiên quyết để người dân tiếp cận với dịch vụ giáo dục, y tế, thị trường tiêu thụ và các chính sách an sinh. Một mạng lưới giao thông nông thôn được quy hoạch hợp lý, đầu tư đồng bộ chính là cơ sở để rút ngắn khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng trung tâm và vùng sâu, vùng xa.
Với tỉnh Tuyên Quang - một địa phương trung du miền núi phía Bắc có địa hình phức tạp, dân cư phân tán, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao - giao thông nông thôn từ lâu đã là một trong những điểm nghẽn lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Những con đường đất trơn trượt mùa mưa, cầu tạm qua suối, lối mòn cắt ngang sườn đồi từng khiến hàng nghìn hộ dân sống trong cảnh biệt lập, khó tiếp cận dịch vụ cơ bản và thị trường tiêu thụ nông sản. Trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, việc đầu tư đồng bộ hệ thống hạ tầng giao thông nông thôn là một thách thức lớn. Chính vì vậy, Hội đồng nhân dân tỉnh Tuyên Quang ban hành và thông qua Nghị quyết số 55/NQ-HĐND ngày 20/11/2020 về bê tông hóa đường giao thông nông thôn và xây dựng cầu trên đường giao thông nông thôn giai đoạn 2021-2025. Đây là một quyết sách chiến lược, thể hiện tư duy phát triển có trọng tâm, trọng điểm và lấy người dân làm trung tâm. Đây không chỉ là kế hoạch đầu tư xây dựng đơn thuần, mà còn là lời cam kết chính trị rõ ràng trong việc từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, nâng cao chất lượng sống nông thôn, và đặt nền móng cho quá trình phát triển bền vững toàn diện trong tương lai.
Từ định hướng đúng đắn và quyết tâm chính trị cao, sau gần 5 năm thực hiện Nghị quyết số 55/NQ-HĐND ngày 20/11/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Tuyên Quang, toàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, có tính nền tảng đối với mục tiêu phát triển bền vững nông thôn trong giai đoạn tới.
Tính đến hết năm 2024, toàn tỉnh đã hoàn thành bê tông hóa được 900,88 km đường giao thông nông thôn, đạt 83,41% kế hoạch. Trong đó có 431,96 km đường thôn và 468,95 km đường nội đồng. Đáng chú ý, trong kế hoạch năm 2025, các địa phương đăng ký thực hiện tiếp 166,146 km, bao gồm 42,142 km đường thôn và 124,004 km đường nội đồng, cho thấy xu hướng tập trung nhiều hơn vào phục vụ sản xuất nông nghiệp và vận chuyển nội vùng. Tính chung toàn giai đoạn 2021-2025, tổng số km đường giao thông nông thôn được hoàn thành là 1.067,026/1.080 km, đạt 98,80% kế hoạch, tiệm cận mức hoàn thành tuyệt đối. Trong đó, đường thôn đạt 474,05/620 km (khoảng 76%) và đường nội đồng vượt chỉ tiêu với 592,95/460 km (đạt trên 129%). Nhờ đó, tổng số km đường thôn được cứng hóa toàn tỉnh tăng lên 3.200,57/3.953,8 km, đạt 80%, và đường nội đồng đạt 1.199,23/1.651,84 km, tương đương trên 70%, đúng với mục tiêu ban đầu của Nghị quyết đề ra.
Song song với đó, chương trình xây dựng cầu trên đường giao thông nông thôn cũng đạt nhiều kết quả rõ nét. Trong giai đoạn từ năm 2021 đến hết năm 2024, tỉnh đã đầu tư xây dựng được 161/200 cầu, đạt 80,5% kế hoạch. Riêng năm 2025, dự kiến xây dựng thêm 39 cầu, hoàn thành trọn vẹn mục tiêu 200 cầu theo Nghị quyết 55. Việc phân bổ đầu tư qua từng năm cũng được thực hiện hợp lý: năm 2021 hoàn thành 38 cầu, các năm 2022 và 2023 mỗi năm 39 cầu, và năm 2024 là 45 cầu - đảm bảo tiến độ và hiệu quả đầu tư theo từng giai đoạn.
Những con số trên không chỉ phản ánh nỗ lực quản lý, điều hành sát sao từ cấp tỉnh đến cơ sở, mà còn là minh chứng cho sự chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy đầu tư công, chuyển từ “hỗ trợ dàn trải” sang “đầu tư tập trung, hiệu quả và có chiều sâu”. Các tuyến đường được điều chỉnh linh hoạt: một số tuyến ban đầu là đường thôn nhưng được chuyển sang nội đồng vì phục vụ chủ yếu cho sản xuất; hay ngược lại, nhiều tuyến đường liên thôn được mở mới để phá thế cô lập cho các thôn bản vùng sâu. Chính sự điều chỉnh này giúp giao thông nông thôn không chỉ “mở rộng về chiều dài” mà còn “đi vào chiều sâu sử dụng”.
Thành công của chương trình xây dựng giao thông nông thôn tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2021-2025 không thể tách rời khỏi vai trò chủ động, linh hoạt của từng địa phương. Trong quá trình triển khai, các huyện, thành phố đã căn cứ vào điều kiện thực tế, nhu cầu dân sinh - sản xuất, cũng như khả năng huy động nguồn lực để đăng ký khối lượng phù hợp, góp phần hoàn thành gần như toàn bộ mục tiêu Nghị quyết số 55/NQ-HĐND đề ra. Trong số các địa phương thì huyện Hàm Yên dẫn đầu toàn tỉnh với 45,37 km (15 km đường thôn, 30,37 km đường nội đồng); huyện Sơn Dương thực hiện 39,04 km, huyện Chiêm Hóa 32,922 km, huyện Yên Sơn 32,775 km - toàn bộ là đường nội đồng phục vụ sản xuất. Các huyện vùng cao như Lâm Bình, Na Hang tuy chỉ đăng ký 11,76 km và 4,279 km nhưng lại tập trung vào những tuyến đặc biệt khó khăn, có ý nghĩa chiến lược trong kết nối dân cư và phát triển sinh kế địa phương. Những con số trên không chỉ thể hiện mức độ tham gia, mà còn phản ánh tư duy phát triển sát thực tiễn, có chọn lọc và mang tính lan tỏa cao.
Bên cạnh đó, các huyện còn đồng thời triển khai các hạng mục cầu nông thôn, góp phần nối liền các tuyến đường mới hình thành. Việc phân bổ khối lượng đầu tư giữa các địa phương được thực hiện hợp lý, theo lộ trình rõ ràng và tiến độ phù hợp với năng lực triển khai thực tế, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn và phát huy tối đa giá trị công trình sau đầu tư.
Có thể nói, sự phối hợp đồng bộ và chủ động giữa các huyện không chỉ giúp tỉnh Tuyên Quang tiến gần đến mục tiêu 100% kế hoạch về đường và cầu giao thông nông thôn, mà còn góp phần hình thành mạng lưới hạ tầng cơ sở liên kết vùng hiệu quả, tạo tiền đề cho phát triển sản xuất hàng hóa, thu hút đầu tư nông thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Từ góc nhìn thực tiễn tại các địa phương, nhiều vùng quê từng khó tiếp cận với dịch vụ cơ bản nay đã “thay da đổi thịt” nhờ hệ thống đường - cầu mới. Những tuyến đường bê tông sạch đẹp đã thay thế lối mòn đất đỏ, giúp trẻ em đến trường an toàn hơn, nông sản vận chuyển ra chợ nhanh hơn, xe cấp cứu đến bản thuận tiện hơn, người dân đi lại không còn nặng gánh mùa mưa lũ. Ở nhiều nơi như Lâm Bình, Na Hang, Yên Sơn, Sơn Dương…, người dân vui mừng tổ chức lễ khánh thành đường như ngày hội lớn của làng. Niềm phấn khởi không chỉ vì con đường đã về tới thôn, mà vì sau mỗi công trình là cảm nhận rõ rệt về sự đổi thay - từ sinh kế đến tinh thần. Nhiều hộ đã đầu tư phát triển vườn rừng, chăn nuôi hàng hóa, mở dịch vụ nhỏ tại nhà nhờ giao thông thuận tiện. Những cây cầu bê tông vững chắc nối đôi bờ không chỉ mở rộng giao thông mà còn kết nối lòng người, nâng cao tinh thần tự tin, chủ động vươn lên thoát nghèo.
Thực tế cũng cho thấy, tỷ lệ cứng hóa đường thôn và nội đồng ngày càng được nâng cao (đạt lần lượt 80% và trên 70% so với tổng chiều dài quy hoạch). Những con đường ấy đã và đang trở thành nền tảng vững chắc để phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn như cam sành Hàm Yên, chè Shan tuyết Na Hang, lúa đặc sản Sơn Dương, hay các vùng trồng rừng nguyên liệu gắn với chế biến gỗ. Giao thông được cải thiện giúp người dân dễ tiếp cận thị trường, doanh nghiệp thuận lợi thu mua, logistics tiết kiệm thời gian và chi phí.
Qua kết quả đạt được, có thể rút ra nhiều bài học thực tiễn. Trước hết là sự gắn kết giữa chính quyền các cấp với người dân trong triển khai nhiệm vụ. Thứ hai là tính linh hoạt trong phân bổ nguồn lực, điều chỉnh chỉ tiêu phù hợp thực tế từng địa phương. Và cuối cùng là vai trò giám sát, phản biện của cộng đồng trong đảm bảo chất lượng công trình – yếu tố quyết định đến tính bền vững lâu dài. Tuyên Quang đã cho thấy một mô hình triển khai hiệu quả, khi mà chính sách không nằm trên giấy, mà đi vào từng bản làng, từng cánh đồng, từng gia đình với những thay đổi có thể đo đếm và cảm nhận rõ ràng.
Từ một chương trình cụ thể, tỉnh Tuyên Quang đã tạo nên một sự chuyển động đồng bộ trong tư duy phát triển hạ tầng nông thôn: từ chỗ “làm đường để đi lại” sang “làm đường để phát triển”. Với nền móng hạ tầng được từng bước hoàn thiện, nông thôn Tuyên Quang đang mở ra những không gian phát triển mới – nơi kinh tế có điều kiện tăng tốc, xã hội thêm kết nối, và niềm tin của người dân ngày càng được bồi đắp vững chắc hơn.
Với tỉnh Tuyên Quang - một địa phương trung du miền núi phía Bắc có địa hình phức tạp, dân cư phân tán, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao - giao thông nông thôn từ lâu đã là một trong những điểm nghẽn lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Những con đường đất trơn trượt mùa mưa, cầu tạm qua suối, lối mòn cắt ngang sườn đồi từng khiến hàng nghìn hộ dân sống trong cảnh biệt lập, khó tiếp cận dịch vụ cơ bản và thị trường tiêu thụ nông sản. Trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, việc đầu tư đồng bộ hệ thống hạ tầng giao thông nông thôn là một thách thức lớn. Chính vì vậy, Hội đồng nhân dân tỉnh Tuyên Quang ban hành và thông qua Nghị quyết số 55/NQ-HĐND ngày 20/11/2020 về bê tông hóa đường giao thông nông thôn và xây dựng cầu trên đường giao thông nông thôn giai đoạn 2021-2025. Đây là một quyết sách chiến lược, thể hiện tư duy phát triển có trọng tâm, trọng điểm và lấy người dân làm trung tâm. Đây không chỉ là kế hoạch đầu tư xây dựng đơn thuần, mà còn là lời cam kết chính trị rõ ràng trong việc từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, nâng cao chất lượng sống nông thôn, và đặt nền móng cho quá trình phát triển bền vững toàn diện trong tương lai.
Từ định hướng đúng đắn và quyết tâm chính trị cao, sau gần 5 năm thực hiện Nghị quyết số 55/NQ-HĐND ngày 20/11/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Tuyên Quang, toàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, có tính nền tảng đối với mục tiêu phát triển bền vững nông thôn trong giai đoạn tới.
Tính đến hết năm 2024, toàn tỉnh đã hoàn thành bê tông hóa được 900,88 km đường giao thông nông thôn, đạt 83,41% kế hoạch. Trong đó có 431,96 km đường thôn và 468,95 km đường nội đồng. Đáng chú ý, trong kế hoạch năm 2025, các địa phương đăng ký thực hiện tiếp 166,146 km, bao gồm 42,142 km đường thôn và 124,004 km đường nội đồng, cho thấy xu hướng tập trung nhiều hơn vào phục vụ sản xuất nông nghiệp và vận chuyển nội vùng. Tính chung toàn giai đoạn 2021-2025, tổng số km đường giao thông nông thôn được hoàn thành là 1.067,026/1.080 km, đạt 98,80% kế hoạch, tiệm cận mức hoàn thành tuyệt đối. Trong đó, đường thôn đạt 474,05/620 km (khoảng 76%) và đường nội đồng vượt chỉ tiêu với 592,95/460 km (đạt trên 129%). Nhờ đó, tổng số km đường thôn được cứng hóa toàn tỉnh tăng lên 3.200,57/3.953,8 km, đạt 80%, và đường nội đồng đạt 1.199,23/1.651,84 km, tương đương trên 70%, đúng với mục tiêu ban đầu của Nghị quyết đề ra.
Song song với đó, chương trình xây dựng cầu trên đường giao thông nông thôn cũng đạt nhiều kết quả rõ nét. Trong giai đoạn từ năm 2021 đến hết năm 2024, tỉnh đã đầu tư xây dựng được 161/200 cầu, đạt 80,5% kế hoạch. Riêng năm 2025, dự kiến xây dựng thêm 39 cầu, hoàn thành trọn vẹn mục tiêu 200 cầu theo Nghị quyết 55. Việc phân bổ đầu tư qua từng năm cũng được thực hiện hợp lý: năm 2021 hoàn thành 38 cầu, các năm 2022 và 2023 mỗi năm 39 cầu, và năm 2024 là 45 cầu - đảm bảo tiến độ và hiệu quả đầu tư theo từng giai đoạn.
Những con số trên không chỉ phản ánh nỗ lực quản lý, điều hành sát sao từ cấp tỉnh đến cơ sở, mà còn là minh chứng cho sự chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy đầu tư công, chuyển từ “hỗ trợ dàn trải” sang “đầu tư tập trung, hiệu quả và có chiều sâu”. Các tuyến đường được điều chỉnh linh hoạt: một số tuyến ban đầu là đường thôn nhưng được chuyển sang nội đồng vì phục vụ chủ yếu cho sản xuất; hay ngược lại, nhiều tuyến đường liên thôn được mở mới để phá thế cô lập cho các thôn bản vùng sâu. Chính sự điều chỉnh này giúp giao thông nông thôn không chỉ “mở rộng về chiều dài” mà còn “đi vào chiều sâu sử dụng”.
Thành công của chương trình xây dựng giao thông nông thôn tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2021-2025 không thể tách rời khỏi vai trò chủ động, linh hoạt của từng địa phương. Trong quá trình triển khai, các huyện, thành phố đã căn cứ vào điều kiện thực tế, nhu cầu dân sinh - sản xuất, cũng như khả năng huy động nguồn lực để đăng ký khối lượng phù hợp, góp phần hoàn thành gần như toàn bộ mục tiêu Nghị quyết số 55/NQ-HĐND đề ra. Trong số các địa phương thì huyện Hàm Yên dẫn đầu toàn tỉnh với 45,37 km (15 km đường thôn, 30,37 km đường nội đồng); huyện Sơn Dương thực hiện 39,04 km, huyện Chiêm Hóa 32,922 km, huyện Yên Sơn 32,775 km - toàn bộ là đường nội đồng phục vụ sản xuất. Các huyện vùng cao như Lâm Bình, Na Hang tuy chỉ đăng ký 11,76 km và 4,279 km nhưng lại tập trung vào những tuyến đặc biệt khó khăn, có ý nghĩa chiến lược trong kết nối dân cư và phát triển sinh kế địa phương. Những con số trên không chỉ thể hiện mức độ tham gia, mà còn phản ánh tư duy phát triển sát thực tiễn, có chọn lọc và mang tính lan tỏa cao.
Bên cạnh đó, các huyện còn đồng thời triển khai các hạng mục cầu nông thôn, góp phần nối liền các tuyến đường mới hình thành. Việc phân bổ khối lượng đầu tư giữa các địa phương được thực hiện hợp lý, theo lộ trình rõ ràng và tiến độ phù hợp với năng lực triển khai thực tế, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn và phát huy tối đa giá trị công trình sau đầu tư.
Có thể nói, sự phối hợp đồng bộ và chủ động giữa các huyện không chỉ giúp tỉnh Tuyên Quang tiến gần đến mục tiêu 100% kế hoạch về đường và cầu giao thông nông thôn, mà còn góp phần hình thành mạng lưới hạ tầng cơ sở liên kết vùng hiệu quả, tạo tiền đề cho phát triển sản xuất hàng hóa, thu hút đầu tư nông thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Từ góc nhìn thực tiễn tại các địa phương, nhiều vùng quê từng khó tiếp cận với dịch vụ cơ bản nay đã “thay da đổi thịt” nhờ hệ thống đường - cầu mới. Những tuyến đường bê tông sạch đẹp đã thay thế lối mòn đất đỏ, giúp trẻ em đến trường an toàn hơn, nông sản vận chuyển ra chợ nhanh hơn, xe cấp cứu đến bản thuận tiện hơn, người dân đi lại không còn nặng gánh mùa mưa lũ. Ở nhiều nơi như Lâm Bình, Na Hang, Yên Sơn, Sơn Dương…, người dân vui mừng tổ chức lễ khánh thành đường như ngày hội lớn của làng. Niềm phấn khởi không chỉ vì con đường đã về tới thôn, mà vì sau mỗi công trình là cảm nhận rõ rệt về sự đổi thay - từ sinh kế đến tinh thần. Nhiều hộ đã đầu tư phát triển vườn rừng, chăn nuôi hàng hóa, mở dịch vụ nhỏ tại nhà nhờ giao thông thuận tiện. Những cây cầu bê tông vững chắc nối đôi bờ không chỉ mở rộng giao thông mà còn kết nối lòng người, nâng cao tinh thần tự tin, chủ động vươn lên thoát nghèo.
Thực tế cũng cho thấy, tỷ lệ cứng hóa đường thôn và nội đồng ngày càng được nâng cao (đạt lần lượt 80% và trên 70% so với tổng chiều dài quy hoạch). Những con đường ấy đã và đang trở thành nền tảng vững chắc để phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn như cam sành Hàm Yên, chè Shan tuyết Na Hang, lúa đặc sản Sơn Dương, hay các vùng trồng rừng nguyên liệu gắn với chế biến gỗ. Giao thông được cải thiện giúp người dân dễ tiếp cận thị trường, doanh nghiệp thuận lợi thu mua, logistics tiết kiệm thời gian và chi phí.
Qua kết quả đạt được, có thể rút ra nhiều bài học thực tiễn. Trước hết là sự gắn kết giữa chính quyền các cấp với người dân trong triển khai nhiệm vụ. Thứ hai là tính linh hoạt trong phân bổ nguồn lực, điều chỉnh chỉ tiêu phù hợp thực tế từng địa phương. Và cuối cùng là vai trò giám sát, phản biện của cộng đồng trong đảm bảo chất lượng công trình – yếu tố quyết định đến tính bền vững lâu dài. Tuyên Quang đã cho thấy một mô hình triển khai hiệu quả, khi mà chính sách không nằm trên giấy, mà đi vào từng bản làng, từng cánh đồng, từng gia đình với những thay đổi có thể đo đếm và cảm nhận rõ ràng.
Từ một chương trình cụ thể, tỉnh Tuyên Quang đã tạo nên một sự chuyển động đồng bộ trong tư duy phát triển hạ tầng nông thôn: từ chỗ “làm đường để đi lại” sang “làm đường để phát triển”. Với nền móng hạ tầng được từng bước hoàn thiện, nông thôn Tuyên Quang đang mở ra những không gian phát triển mới – nơi kinh tế có điều kiện tăng tốc, xã hội thêm kết nối, và niềm tin của người dân ngày càng được bồi đắp vững chắc hơn.
Thạc sĩ Dương Thúy Ngọc
Khoa Lý luận cơ sở
Khoa Lý luận cơ sở
Tin mới nhất:
- ❧ Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch tại Tuyên Quang -
- ❧ Nguời cao tuổi tỉnh Tuyên Quang thực hiện tốt phong thi đua "Tuổi cao - gương sáng" -
- ❧ Phát huy trách nhiệm nêu gương của Bí thư chi bộ, tổ trưởng tổ dân phố ở cơ sở - Từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang -
- ❧ Thị trấn Yên Sơn phát huy hiệu quả Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở -
- ❧ Vận dụng nội dung tác phẩm "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" trong xây dựng và phát triển văn hóa của tỉnh Tuyên Quang -