Nghiên cứu - Trao đổi

Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Tuyên Quang trong công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số xoá đói, giảm nghèo

Ngày Đăng: 8/10/2025 23:1 Lượt xem: 22

          Tóm tắt: Những năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và quyết liệt của Tỉnh ủy Tuyên Quang, công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả quan trọng, trở thành điểm sáng trong khu vực miền núi phía Bắc. Các chủ trương, nghị quyết và chính sách của Trung ương, của tỉnh luôn xuất phát từ thực tiễn, sát với yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, được cả hệ thống chính trị đồng bộ triển khai và Nhân dân tích cực hưởng ứng. Nhờ đó, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt, khu vực nông thôn, vùng núi dần thay da đổi thịt.
          Từ khoá: Tỉnh ủy Tuyên Quang; công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số xoá đói, giảm nghèo; công tác dân vận của Đảng
 
          Xóa đói, giảm nghèo luôn là mục tiêu xuyên suốt, giữ vị trí hàng đầu trong đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước. Ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đói nghèo cũng là một thứ “giặc” nguy hiểm không kém giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong bức thư gửi toàn thể đồng bào, đăng trên Báo Cứu quốc ngày 28/9/1945, Người kêu gọi “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng”[1]. Quan điểm nhân văn sâu sắc ấy đã được Đảng và Nhà nước kế thừa, vận dụng và ngày càng cụ thể hóa trong các chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực tiễn cho thấy, các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong gần 40 năm đổi mới đã luôn hướng tới mục tiêu “không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Trong đó, công tác xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được coi là một trong những nhiệm vụ chiến lược, vừa góp phần tăng trưởng kinh tế, giúp giữ vững ổn định chính trị - xã hội, vừa góp phần bảo đảm quốc phòng - an ninh.
          1. Thực trạng Tỉnh ủy Tuyên Quang lãnh đạo công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo
          Theo Nghị quyết số 202/2025/QH15, ngày 12/6/2025 của Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, tỉnh Tuyên Quang được thành lập trên cơ sở sáp nhập tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, có tổng diện tích tự nhiên 13.795,40 km² và dân số hơn 1,9 triệu người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 70%[2]. Tuyên Quang là tỉnh miền núi, biên giới giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh, điều kiện kinh tế- xã hội còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao. Nhận thức rõ điều này, Tỉnh ủy Tuyên Quang luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai đồng bộ, hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia. Nhờ đó, nhiều hộ dân tộc thiểu số từng bước thoát nghèo, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện, củng cố niềm tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, đồng thời góp phần giữ vững ổn định xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh.
            Tỉnh ủy Tuyên Quang luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo, coi đây là nhiệm vụ chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo công tác dân vận của Tỉnh ủy. Tỉnh ủy đã quán triệt sâu sắc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025; Quyết định số 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025; Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025.
            Trên cơ sở chủ trương, nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy đã ban hành nhiều nghị quyết như Nghị quyết số 25-NQ/TU ngày 27/4/2022 về triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Nghị quyết số 26-NQ/TU ngày 27/4/2022 về tăng cường lãnh đạo thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững, , Nghị quyết số 27-NQ/TU ngày 01/5/2022 về xóa bỏ hủ tục, phong tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh... Các cấp ủy, tổ chức đảng đã kịp thời cụ thể hóa các chủ trương này thành chương trình, kế hoạch, giải pháp phù hợp với thực tế từng địa bàn, từng đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số, tránh áp dụng rập khuôn máy móc. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền, giải thích chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến đồng bào các dân tộc thiểu số thông qua hệ thống chính trị cơ sở như chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, phương tiện truyền thông đại chúng cũng như thông qua cán bộ, đảng viên trực tiếp bám sát cơ sở. Nhờ cách tiếp cận đa dạng, đồng bộ và linh hoạt này, đồng bào dân tộc thiểu số hiểu rõ, đồng thuận và tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, góp phần củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
          Nhờ đó, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện rõ rệt, các mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội cơ bản hoàn thành theo kế hoạch. Từ năm 2021 đến 2025, kinh tế của tỉnh Tuyên Quang duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tổng sản phẩm (GRDP) bình quân 5 năm đạt 8,01%; quy mô kinh tế năm 2025 ước đạt 55.162 tỉ đồng, tăng 1,6 lần so với năm 2020; GRDP bình quân đầu người năm 2025 ước đạt 66,68 triệu đồng/năm, tăng 23,16 triệu đồng so với năm 2020. GRDP bình quân 5 năm của tỉnh Hà Giang đạt 5,9%, quy mô kinh tế năm 2025 ước đạt 40.950 tỉ đồng, tăng 1,58 lần so với năm 2020; GRDP bình quân đầu người năm 2025 ước đạt 45,0 triệu đồng/năm, tăng 15,2 triệu đồng so với năm 2020[3]
          Trong những năm qua, chính sách giảm nghèo được Tỉnh ủy Tuyên Quang triển khai đồng bộ, hiệu quả theo tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm nhanh, số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng đều. Các chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách đối với người có công được thực hiện nghiêm túc, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong đẩy mạnh xã hội hóa, hoàn thành các chương trình, đề án xóa nhà tạm, nhà dột nát. Công tác bố trí, sắp xếp dân cư được quan tâm, bảo đảm ổn định đời sống cho các hộ bị ảnh hưởng do lũ quét, sạt lở đất hoặc cư trú phân tán tại vùng sâu, vùng xa; đồng thời kịp thời giải quyết tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất và triển khai các dự án cấp nước sinh hoạt, nước sản xuất cho người dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Tại Tuyên Quang, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 23,45% năm 2021 xuống còn khoảng 7,38% năm 2025; toàn tỉnh hỗ trợ xóa nhà ở tạm, dột nát cho 13.995 hộ với tổng kinh phí trên 1.255 tỉ đồng. Tại Hà Giang, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều theo chuẩn nghèo của tỉnh giảm bình quân 5,87%/năm, giảm 42.365 hộ nghèo so với năm 2022[4], ước đến cuối năm 2025 còn 31,65%; toàn tỉnh đã thực hiện xóa nhà ở tạm, dột nát cho trên 26.000 hộ nghèo, cận nghèo. Tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội tại Tuyên Quang đạt 37,97% so với lực lượng lao động trong độ tuổi; tại Hà Giang đạt 26,0%.
          Đặc biệt, Tỉnh ủy Tuyên Quang chỉ đạo triển khai quyết liệt ba chương trình mục tiêu quốc gia với tổng nguồn lực trên 27.400 tỷ đồng; đến nay tỉnh đã có 74/122 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 13 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; hơn 600 công trình hạ tầng được xây dựng, trong đó hạ tầng giao thông được chú trọng phát triển, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm được nhựa hóa hoặc bê tông hóa; tỷ lệ hộ dân sử dụng điện lưới quốc gia và nguồn điện khác đạt trên 99,9%. Có 9 xã khu vực III, 8 xã khu vực II hoàn thành xây dựng nông thôn mới, trở thành xã khu vực I. Tại Hà Giang, việc thực hiện ba chương trình mục tiêu quốc gia: phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới cũng được triển khai quyết liệt, từng bước làm thay đổi diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số[5].
          Những kết quả trên khẳng định vai trò lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy Tuyên Quang trong việc lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống cho đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và tạo nền tảng phát triển bền vững cho địa phương trong giai đoạn mới.
          Bên cạnh những kết quả đạt được, sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Tuyên Quang đối với công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo vẫn còn những hạn chế nhất định. Việc cụ thể hóa các nghị quyết, chủ trương của Trung ương về công tác dân vận và công tác dân tộc ở một số cấp ủy, tổ chức đảng còn chậm, thiếu tính đồng bộ, chưa thật sự gắn với đặc điểm cụ thể của từng địa bàn, từng dân tộc. Một bộ phận cán bộ làm công tác tuyên truyền chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng dân vận, hạn chế trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, thiếu sự gần gũi và thuyết phục, khiến cho khoảng cách giữa cán bộ với người dân chưa được rút ngắn. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin, phương tiện truyền thông hiện đại trong công tác tuyên truyền còn hạn chế, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện cơ sở hạ tầng còn khó khăn.
          Tỉnh ủy chưa chỉ đạo quyết liệt việc ứng dụng khoa học - công nghệ, xây dựng các vùng sản xuất tập trung, nông nghiệp công nghệ cao. Do đó, giá trị gia tăng của sản phẩm còn thấp, đời sống của nhiều hộ đồng bào dân tộc chưa được cải thiện rõ rệt, nguy cơ tái nghèo vẫn cao. Công tác chỉ đạo xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương thiếu bền vững; sau khi đạt chuẩn, nhiều tiêu chí quan trọng như thu nhập, môi trường, giảm nghèo chưa được duy trì tốt, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của nhân dân.
           2. Nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế về sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Tuyên Quang đối với công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo
          Những ưu điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy Tuyên Quang đối với việc vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo trước hết bắt nguồn từ nhận thức đúng đắn và sự quan tâm sâu sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp về vị trí, vai trò của công tác dân vận trong phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỉnh ủy đã kịp thời cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết của Trung ương thành các chương trình, kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế địa phương, bảo đảm tính khả thi, đồng bộ và toàn diện. Cùng với đó là sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, từ cấp tỉnh đến cơ sở, phát huy hiệu quả vai trò của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong tuyên truyền, vận động, triển khai chính sách. Ngoài ra, sự đồng thuận, tích cực hưởng ứng của đồng bào dân tộc thiểu số, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, cùng với việc huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ Trung ương, địa phương và xã hội hóa là những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên những kết quả nổi bật trong giảm nghèo bền vững, cải thiện đời sống và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
          Ngược lại, những hạn chế trong công tác lãnh đạo của Tỉnh ủy Tuyên Quang chủ yếu bắt nguồn từ việc năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của một bộ phận cán bộ cơ sở còn hạn chế, thiếu tính chủ động, sáng tạo trong vận dụng chính sách, trong khi nguồn lực đầu tư còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa tạo được đột phá trong phát triển sinh kế cho người dân. Công tác tuyên truyền, vận động còn nặng về hình thức, chưa đổi mới về nội dung, phương pháp, chưa phù hợp với phong tục, tập quán và trình độ dân trí của đồng bào. Hạ tầng kỹ thuật, thông tin, giao thông còn khó khăn, làm hạn chế khả năng tiếp cận chính sách, khoa học - công nghệ của người dân.
           3. Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Tuyên Quang  đối với công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo
          Từ thực trạng trên, để tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Tuyên Quang đối với công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau:
          Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với công tác dân vận, công tác dân tộc trong giai đoạn mới. Tỉnh ủy cần tăng cường quán triệt, cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương về công tác dân vận và công tác dân tộc, bảo đảm việc ban hành chương trình, kế hoạch phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hóa của từng vùng, từng dân tộc.
          Thứ hai, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng “dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm, dễ kiểm tra”, phù hợp với phong tục, tập quán và trình độ dân trí của từng nhóm dân tộc. Chú trọng phát huy vai trò của người có uy tín, già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo trong tuyên truyền, vận động; đồng thời tăng cường sử dụng ngôn ngữ dân tộc, phương tiện truyền thông số, mạng xã hội và hệ thống phát thanh cơ sở để nâng cao hiệu quả lan tỏa.
          Thứ ba, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, công tác dân tộc, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số, bảo đảm họ có phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, kỹ năng dân vận và khả năng sử dụng tiếng dân tộc. Tỉnh ủy cần có cơ chế khuyến khích cán bộ bám cơ sở lâu dài, gắn bó với đồng bào, qua đó tăng tính thuyết phục và hiệu quả vận động.
          Thứ tư, tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng bền vững, ưu tiên đầu tư hạ tầng thiết yếu (giao thông, điện, nước, trường học, y tế), phát triển sản xuất hàng hóa gắn với lợi thế đặc thù của từng vùng, từng dân tộc. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp, phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, tạo sinh kế ổn định và nâng cao thu nhập cho người dân.
          Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết và nhân rộng các mô hình hiệu quả trong giảm nghèo bền vững. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và doanh nghiệp trong thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, bảo đảm nguồn lực đầu tư được phân bổ hợp lý, sử dụng hiệu quả, tránh dàn trải.
           Thứ sáu, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các nguồn lực xã hội hóa trong công tác xóa đói, giảm nghèo; tăng cường kết nối, liên kết vùng giữa các huyện, xã; tạo điều kiện để đồng bào dân tộc thiểu số được tham gia vào quá trình xây dựng và giám sát chính sách. Qua đó, củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng, phát huy nội lực, khát vọng vươn lên thoát nghèo bền vững, góp phần xây dựng Tuyên Quang ngày càng phát triển, ổn định và giàu đẹp.
           Tóm lại, từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng, sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Tuyên Quang đối với công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần làm thay đổi diện mạo vùng đồng bào dân tộc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định đòi hỏi Tỉnh ủy phải tiếp tục đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, linh hoạt và hiệu quả hơn trong thời gian tới. Việc tăng cường công tác dân vận, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, phát huy nội lực của đồng bào dân tộc thiểu số, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo tồn bản sắc văn hóa và đảm bảo an sinh xã hội chính là những yếu tố then chốt để Tuyên Quang thực hiện thắng lợi mục tiêu giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, các dân tộc, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh và hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững của tỉnh trong giai đoạn mới.
 
Sinh viên Đới Diệu Trang Linh
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
 
 
Tài liệu tham khảo:
(1) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
(2) Quốc hội (2025), Nghị quyết số: 202/2025/QH15, ngày 12/6/2025, của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, Hà Nội.
(3) Tỉnh ủy Tuyên Quang (2025), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
(4) Tỉnh ủy Hà Giang (2022), Nghị quyết số 26-NQ/TU, ngày 27/4/2022, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tăng cường lãnh đạo thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021 – 2025, Hà Giang.
(5)https://thanhtra.com.vn/an-sinh-AFA9C5670/ha-giang-giam-binh-quan-538-ho-ngheo-giai-doan-20212025-50859b773.html
 

[1] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Quốc hội (2025), Nghị quyết số: 202/2025/QH15, ngày 12/6/2025, của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, Hà Nội.
 
[3] Tỉnh ủy Tuyên Quang (2025), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
[4] Tỉnh ủy Hà Giang (2022), Nghị quyết số 26-NQ/TU, ngày 27/4/2022, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tăng cường lãnh đạo thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021 – 2025, Hà Giang.

Tin mới nhất:

Thông báo

Thông báo điều chỉnh thời gian Đại hội chi bộ khoa, phòng trực thuộc Đảng bộ Trường Chính trị nhiệm kỳ 2025 - 2027

Thông báo thời gian tổ chức Đại hội chi bộ khoa, phòng trực thuộc Đảng bộ Trường Chinh trị nhiệm kỳ 2025 - 2027

Thông báo phân công viết bài đăng Thông tin lý luận và thực tiễn; Trang Thông tin điện tử năm 2025

Thông báo về việc bán thanh lý tài sản công và công cụ dụng cụ của Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang năm 2024

Thông báo về việc bán thanh lý tài sản công và công cụ dụng cụ của Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang năm 2024

Thông báo về việc tổ chức Hội thi học viên học giỏi lý luận chính trị năm 2024

Thông báo danh sách viên chức đề nghị xét nâng bậc lương trước thời hạn năm 2024

Thông báo viết bài Thông tin lý luận và Thực tiễn năm 2024

Thông báo danh sách viên chức đủ điều kiện nâng bậc lương trước thời hạn tháng 12 năm 2023

Thông báo Tuyển sinh đào tạo, bồi dưỡng năm 2024

Thông báo về việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản vật liệu thu hồi sau phá dỡ nhà khách, kho

Thông báo về việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản vật liệu thu hồi

Thông báo về việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản vật liệu thu hồi

Thông báo về việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản vật liệu thu hồi

Thông báo viết bài Thông tin lý luận và thực tiễn số 2 năm 2023

Thông báo viết bài Thông tin lý luận và thực tiến số 1 năm 2023

Báo cáo công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị quý III; phương hướng nhiệm vụ quý IV năm 2022

Hướng dẫn trình bày bài viết thu hoạch nghiên cứu thực tế các lớp Trung cấp lý luận chính tri

Hướng dẫn khen thưởng học viên các lớp đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang

Thông tin lý luận và thực tiễn

TUYÊN TRUYỀN

Liên kết web

Đếm số lượng truy cập

Tổng số lượt truy cập: 9174998

Đang Online : 6