Nghiên cứu - Trao đổi
“Đột phá phát triển kết cấu hạ tầng giao thông - nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Tuyên Quang đến năm 2030”
Ngày Đăng: 6/12/2025 9:23 Lượt xem: 17
Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông luôn được xác định là điều kiện tiên quyết đối với tăng trưởng kinh tế - xã hội, đặc biệt đối với các địa phương miền núi còn nhiều khó khăn như tỉnh Tuyên Quang. Hạ tầng giao thông không chỉ tạo nền tảng cho phát triển công nghiệp, du lịch, nông nghiệp, thương mại mà còn trực tiếp nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng thu hút đầu tư và mở rộng liên kết vùng. Nhận thức đầy đủ yêu cầu này, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025-2030 đã xác định một trong ba khâu đột phá là: “Tiếp tục đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông; hạ tầng công nghệ; hạ tầng đô thị; hạ tầng khu, cụm công nghiệp.” [1]. Đồng thời, các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về phát triển kinh tế cũng đặt hạ tầng giao thông lên vị trí trụ cột, trong đó trụ cột số một là “hạ tầng giao thông.”
Thực tiễn triển khai thời gian gần đây cho thấy hạ tầng giao thông của tỉnh đã có bước phát triển mang tính đột phá. Tuyến cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ hoàn thành và đưa vào khai thác đã tạo ra sự thay đổi căn bản trong kết nối với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh trung du - miền núi phía Bắc. Việc rút ngắn thời gian di chuyển, giảm chi phí vận tải đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa và hỗ trợ mạnh mẽ cho các ngành kinh tế chủ lực của tỉnh, đặc biệt là công nghiệp chế biến, nông - lâm nghiệp và dịch vụ du lịch. Trên cơ sở những kết quả quan trọng đó, tỉnh tiếp tục triển khai các dự án giao thông quy mô lớn hơn, trong đó nổi bật là tuyến cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang. Giai đoạn 1 của dự án, dài 104,5 km, đang được thi công với mục tiêu hoàn thành trong năm 2025; giai đoạn 2, từ Tân Quang đến Cửa khẩu Quốc tế Thanh Thủy, dài 58,5 km, đang được tỉnh chuẩn bị tích cực khảo sát đánh giá tuyến. Khi hoàn thành, tuyến cao tốc sẽ rút ngắn đáng kể thời gian di chuyển giữa trung tâm tỉnh với các xã khu vực phía Bắc, mở rộng không gian phát triển dọc tuyến và tăng cường kết nối với hành lang kinh tế gắn với Cửa khẩu Quốc tế Thanh Thủy - điểm giao thương biên mậu có vai trò chiến lược ở khu vực Đông Bắc. Điều này tác động trực tiếp đến năng lực thu hút đầu tư của tỉnh, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến nông - lâm sản, logistics, thương mại và du lịch.
Tỉnh không chỉ tập trung phát triển các tuyến cao tốc mà còn đặc biệt chú trọng nâng cấp đồng bộ hệ thống tỉnh lộ, liên kết vùng. Đây là các tuyến giao thông có vai trò thiết yếu đối với các xã miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi điều kiện tiếp cận dịch vụ công, y tế, giáo dục và thị trường hàng hóa vẫn còn hạn chế. Tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn Chợ Chu - Ngã ba Trung Sơn đang đẩy nhanh tiến độ với chiều dài 28,61km, phấn đấu hoàn thành trong năm 2025. Đây là tuyến giao thông quốc gia có ý nghĩa chiến lược, góp phần hoàn thiện mạng lưới giao thông quốc gia trên địa bàn, tăng cường kết nối nội tỉnh và liên vùng. Hệ thống quốc lộ với 12 tuyến, tổng chiều dài 1.170 km, cũng liên tục được đầu tư nâng cấp. Các dự án trên QL2C (Km217+150 – Km247+100, dài 27,57 km) và QL2 (Km284+600 – Km285+995, dài 3,47 km) đã cải thiện rõ rệt năng lực vận tải và tăng tính kết nối với khu vực sản xuất, dân cư.
Song song với đầu tư giao thông trục chính, tỉnh ưu tiên phát triển giao thông nông thôn như một yếu tố bền vững trong phát triển vùng. Hai tỉnh Tuyên Quang - Hà Giang trước sáp nhập đã cứng hóa tổng cộng 2.047 km đường trục xã, thôn và đường nội đồng (Tuyên Quang 1.067 km; Hà Giang 980 km). Việc cứng hóa các tuyến đường liên xã, liên thôn và mở mới các trục giao thông kết nối vùng sản xuất tập trung đã tạo động lực quan trọng cho lưu thông hàng hóa, nâng cao thu nhập người dân, thúc đẩy xây dựng nông thôn mới, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tại các khu vực vùng sâu, vùng xa. Các con số này phản ánh nỗ lực liên tục trong cải thiện điều kiện đi lại, gắn kết phát triển hạ tầng với chương trình xây dựng nông thôn mới nâng cao. Bên cạnh đó, 598 km đường huyện đã được đầu tư (Hà Giang 375 km, Tuyên Quang 223 km), tạo mạng lưới liên xã thông suốt, phục vụ vận chuyển nông sản, vật liệu và thúc đẩy thương mại biên mậu. Các dự án đường đô thị như: đường trục phát triển từ thành phố Tuyên Quang đi trung tâm huyện Yên Sơn (nay từ phường Minh Xuân đi xã Yên Sơn), đường Phùng Hưng - Thành phố Hà Giang (nay là phường Hà Giang 2), cầu và đường tránh thị trấn Sơn Dương (nay là xã Sơn Dương), đường từ khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm đến QL2D… được triển khai bằng nguồn vốn ODA và vốn đối ứng, qua đó định hình các không gian đô thị động lực mới.
Một điểm nhấn quan trọng trong phát triển hạ tầng giao thông là đầu tư các công trình cầu vượt sông quy mô lớn. Nhiều cây cầu quan trọng đã hoàn thành như: cầu Bắc Mê, cầu Xuân Vân qua sông Gâm; cầu số 2, cầu số 4, cầu Bạch Xa qua sông Lô; cầu Trắng 2 qua sông Phó Đáy. Tỉnh cũng đang triển khai “công trình đập dâng nước trung tâm thành phố Hà Giang” (nay là phường Hà Giang 1) nhằm tạo cảnh quan và kết nối hai bờ sông, liên thông với Quốc lộ 2 và đường vành đai phía Nam. Những công trình này không chỉ mở rộng không gian kết nối, giải quyết các điểm nghẽn giao thông lâu năm, mà còn rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa, tăng tính an toàn, thúc đẩy du lịch và nâng cao chất lượng đời sống người dân. Đồng thời, việc thực hiện thành công nhiều dự án giao thông quy mô lớn trong điều kiện địa hình phức tạp cho thấy năng lực ngày càng cao của địa phương trong quản lý đầu tư công, tổ chức thi công và huy động nguồn lực xã hội.
Nhìn tổng thể, các kết quả đạt được khẳng định hướng đi “hạ tầng giao thông là trụ cột phát triển” của tỉnh là hoàn toàn đúng đắn. Giao thông hiện đại mở đường cho phát triển đô thị, thúc đẩy hình thành các đô thị động lực; nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; hỗ trợ phát triển du lịch chất lượng cao; tạo điều kiện mở rộng sản xuất nông nghiệp hàng hóa; thu hút các nhà đầu tư chiến lược vào khu kinh tế, khu công nghiệp; mở rộng liên kết với vùng trung du miền núi Bắc Bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng, và kết nối tới Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc). Qua đó, cơ cấu kinh tế của tỉnh có bước chuyển dịch rõ rệt theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ, phù hợp với mục tiêu của nghị quyết. Đối với lĩnh vực du lịch, hạ tầng giao thông phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi để khai thác hiệu quả các khu, điểm du lịch quan trọng của tỉnh như suối khoáng Mỹ Lâm, khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào, danh thắng Na Hang - Lâm Bình, núi Đôi và cổng trời Quản Bạ, cột cờ quốc gia Lũng Cú, dinh thự nhà Vương, phố cổ Đồng Văn, đèo Mã Pì Lèng, hẻm vực Tu Sản, sông Nho Quế, cao nguyên đá Đồng Văn, di tích danh thắng quốc gia ruộng bậc thang Hoàng Su Phì …Việc rút ngắn thời gian di chuyển, kết nối liên vùng với Phú Thọ, Thái Nguyên, Lào Cai góp phần hình thành các tuyến du lịch liên kết, tạo ra chuỗi giá trị du lịch bền vững, qua đó nâng cao sức hấp dẫn của tỉnh đối với du khách trong và ngoài nước. Việc phát triển hạ tầng giao thông cũng mang lại ý nghĩa quan trọng trong bảo đảm quốc phòng - an ninh. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp nâng cao khả năng cơ động của các lực lượng chức năng, phục vụ hiệu quả công tác phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn, giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ chủ quyền biên giới. Đồng thời, sự phát triển của giao thông gắn liền với việc xóa bỏ “vùng lõm” về phát triển, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, tạo sự đồng thuận và củng cố thế trận quốc phòng toàn dân.
Trong giai đoạn tới, để tạo ra những đột phá thực chất trong phát triển hạ tầng giao thông, tỉnh phải tiếp tục tập trung huy động mạnh mẽ các nguồn lực, ưu tiên cho các tuyến kết nối liên vùng và cửa ngõ chiến lược. Trước hết, tuyến từ phường Bình Thuận đi Phú Lương gắn với các nút giao IC5, IC6 của cao tốc Nội Bài - Lào Cai cần được thúc đẩy như một trục giao thương chủ lực, mở đường kết nối trực tiếp với Hà Nội, Lào Cai và toàn vùng Tây Bắc. Cùng với đó, việc triển khai tuyến Phổ Yên (Thái Nguyên) - Tuyên Quang - Lào Cai (đoạn từ đèo Khế đến xã Sơn Dương) sẽ mở rộng đáng kể không gian phát triển liên tỉnh, tạo nền tảng cho sự liên kết vùng bền vững và dài hạn. Song song với các hướng kết nối chiến lược này, tỉnh cũng cần đẩy mạnh hoàn thiện những tuyến đường gắn trực tiếp với cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang, đặc biệt là tuyến Hàm Yên - Chiêm Hóa - Na Hang (ĐT.191). Đây là tuyến huyết mạch có ý nghĩa rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa, nhất là nông - lâm sản từ khu vực phía Bắc của tỉnh, qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế cho các vùng còn nhiều khó khăn. Cùng lúc, để hình thành các trục động lực phát triển mới, tỉnh cần triển khai hiệu quả dự án đường Kim Bình - Tri Phú - Linh Phú kết nối với Chợ Đồn và xã Hùng Lợi tạo nên mạch lưu thông hàng hóa liên tỉnh ổn định. Tuyến Tuyên Quang - Sơn Dương - Thái Nguyên (đoạn hồ Thác Bà - Mỹ Lâm) cũng cần được đẩy nhanh, nhằm khai mở một hành lang liên vùng phục vụ cả công nghiệp lẫn du lịch.
Cùng với phát triển các trục chính, việc nâng cấp đồng bộ các tuyến quốc lộ như QL2C, QL37, QL4 và QL34 là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng năng lực vận tải, giảm áp lực lên các tuyến nội tỉnh và đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hóa quy mô lớn. Đồng thời, tỉnh cần triển khai các tuyến theo quy hoạch giai đoạn 2026 - 2030, gồm đường Minh Ngọc - Mậu Duệ (ĐT.176B), Bắc Quang - Xín Mần (ĐT.177), Yên Bình - Cốc Pài (ĐT.178), Vĩnh Tuy - Yên Bình (ĐT.183) và Đồng Văn - Khia Lía (ĐT.182B), tạo bước mở mới cho phát triển kinh tế cửa khẩu và du lịch sinh thái vùng cao. Trên nền tảng đó, việc mở rộng kết nối giao thông nông thôn, gắn các tuyến huyện, xã với các trục lớn sẽ tạo điều kiện đưa hàng hóa nông - lâm nghiệp vào các thị trường tiêu thụ lớn, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển, nâng cao đời sống nhân dân và thúc đẩy xây dựng nông thôn mới nâng cao.
Trên nền tảng hệ thống đường bộ đó, tỉnh cần đồng thời chú trọng phát triển mạng lưới cầu - đường kết nối trực tiếp với các tuyến cao tốc trên địa bàn để tối ưu hóa khả năng khai thác. Những công trình then chốt như cầu Tân Long, cầu Minh Xuân, cầu Trường Thi qua sông Lô; cầu Bắc Danh - Na Cooc qua sông Gâm; và cầu Sơn Thủy qua sông Phó Đáy cần được ưu tiên nghiên cứu, đầu tư. Khi hệ thống cầu - đường này hoàn thiện, tỉnh sẽ hình thành một mạng lưới liên thông rộng mở giữa trung tâm tỉnh, các vùng sản xuất, khu công nghiệp và các khu du lịch trọng điểm, tạo nên động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội toàn diện.
Nhìn về tương lai, việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông không chỉ là một nhiệm vụ kinh tế - kỹ thuật, mà còn là trục chiến lược để nâng cao vị thế của Tuyên Quang trong khu vực trung du và miền núi Bắc Bộ. Hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại sẽ mở ra những hành lang phát triển mới, thúc đẩy công nghiệp, du lịch, thương mại, logistics và nông - lâm nghiệp, đồng thời tạo môi trường thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư chiến lược, hình thành các khu công nghiệp, đô thị động lực và các tuyến du lịch liên vùng mang tầm quốc gia. Mỗi tuyến đường, mỗi cây cầu, mỗi dự án hoàn thành không chỉ rút ngắn khoảng cách địa lý mà còn mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng sâu, vùng xa với trung tâm, thu hẹp khoảng cách phát triển, nâng cao chất lượng đời sống của người dân và củng cố sự đồng thuận xã hội. Chúng ta có thể khẳng định rằng, hạ tầng giao thông chính là xương sống, là động lực trực tiếp để Tuyên Quang bứt phá về kinh tế - xã hội trong thập kỷ tới, đồng thời là biểu tượng sinh động cho quyết tâm xây dựng tỉnh trở thành trung tâm phát triển năng động, kết nối hiệu quả với các vùng kinh tế trọng điểm trong nước và quốc tế. Với nền tảng lý luận vững chắc, chiến lược phát triển đúng hướng và sự đồng thuận cao của toàn xã hội, Tuyên Quang hoàn toàn có khả năng vươn mình, phá bỏ mọi rào cản về địa hình và khoảng cách, tạo nên một kỳ tích phát triển bền vững, xứng tầm với vị thế chiến lược của tỉnh trong khu vực trung du miền núi phía Bắc và cả nước.
Thực tiễn triển khai thời gian gần đây cho thấy hạ tầng giao thông của tỉnh đã có bước phát triển mang tính đột phá. Tuyến cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ hoàn thành và đưa vào khai thác đã tạo ra sự thay đổi căn bản trong kết nối với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh trung du - miền núi phía Bắc. Việc rút ngắn thời gian di chuyển, giảm chi phí vận tải đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa và hỗ trợ mạnh mẽ cho các ngành kinh tế chủ lực của tỉnh, đặc biệt là công nghiệp chế biến, nông - lâm nghiệp và dịch vụ du lịch. Trên cơ sở những kết quả quan trọng đó, tỉnh tiếp tục triển khai các dự án giao thông quy mô lớn hơn, trong đó nổi bật là tuyến cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang. Giai đoạn 1 của dự án, dài 104,5 km, đang được thi công với mục tiêu hoàn thành trong năm 2025; giai đoạn 2, từ Tân Quang đến Cửa khẩu Quốc tế Thanh Thủy, dài 58,5 km, đang được tỉnh chuẩn bị tích cực khảo sát đánh giá tuyến. Khi hoàn thành, tuyến cao tốc sẽ rút ngắn đáng kể thời gian di chuyển giữa trung tâm tỉnh với các xã khu vực phía Bắc, mở rộng không gian phát triển dọc tuyến và tăng cường kết nối với hành lang kinh tế gắn với Cửa khẩu Quốc tế Thanh Thủy - điểm giao thương biên mậu có vai trò chiến lược ở khu vực Đông Bắc. Điều này tác động trực tiếp đến năng lực thu hút đầu tư của tỉnh, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến nông - lâm sản, logistics, thương mại và du lịch.
Tỉnh không chỉ tập trung phát triển các tuyến cao tốc mà còn đặc biệt chú trọng nâng cấp đồng bộ hệ thống tỉnh lộ, liên kết vùng. Đây là các tuyến giao thông có vai trò thiết yếu đối với các xã miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi điều kiện tiếp cận dịch vụ công, y tế, giáo dục và thị trường hàng hóa vẫn còn hạn chế. Tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn Chợ Chu - Ngã ba Trung Sơn đang đẩy nhanh tiến độ với chiều dài 28,61km, phấn đấu hoàn thành trong năm 2025. Đây là tuyến giao thông quốc gia có ý nghĩa chiến lược, góp phần hoàn thiện mạng lưới giao thông quốc gia trên địa bàn, tăng cường kết nối nội tỉnh và liên vùng. Hệ thống quốc lộ với 12 tuyến, tổng chiều dài 1.170 km, cũng liên tục được đầu tư nâng cấp. Các dự án trên QL2C (Km217+150 – Km247+100, dài 27,57 km) và QL2 (Km284+600 – Km285+995, dài 3,47 km) đã cải thiện rõ rệt năng lực vận tải và tăng tính kết nối với khu vực sản xuất, dân cư.
Song song với đầu tư giao thông trục chính, tỉnh ưu tiên phát triển giao thông nông thôn như một yếu tố bền vững trong phát triển vùng. Hai tỉnh Tuyên Quang - Hà Giang trước sáp nhập đã cứng hóa tổng cộng 2.047 km đường trục xã, thôn và đường nội đồng (Tuyên Quang 1.067 km; Hà Giang 980 km). Việc cứng hóa các tuyến đường liên xã, liên thôn và mở mới các trục giao thông kết nối vùng sản xuất tập trung đã tạo động lực quan trọng cho lưu thông hàng hóa, nâng cao thu nhập người dân, thúc đẩy xây dựng nông thôn mới, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tại các khu vực vùng sâu, vùng xa. Các con số này phản ánh nỗ lực liên tục trong cải thiện điều kiện đi lại, gắn kết phát triển hạ tầng với chương trình xây dựng nông thôn mới nâng cao. Bên cạnh đó, 598 km đường huyện đã được đầu tư (Hà Giang 375 km, Tuyên Quang 223 km), tạo mạng lưới liên xã thông suốt, phục vụ vận chuyển nông sản, vật liệu và thúc đẩy thương mại biên mậu. Các dự án đường đô thị như: đường trục phát triển từ thành phố Tuyên Quang đi trung tâm huyện Yên Sơn (nay từ phường Minh Xuân đi xã Yên Sơn), đường Phùng Hưng - Thành phố Hà Giang (nay là phường Hà Giang 2), cầu và đường tránh thị trấn Sơn Dương (nay là xã Sơn Dương), đường từ khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm đến QL2D… được triển khai bằng nguồn vốn ODA và vốn đối ứng, qua đó định hình các không gian đô thị động lực mới.
Một điểm nhấn quan trọng trong phát triển hạ tầng giao thông là đầu tư các công trình cầu vượt sông quy mô lớn. Nhiều cây cầu quan trọng đã hoàn thành như: cầu Bắc Mê, cầu Xuân Vân qua sông Gâm; cầu số 2, cầu số 4, cầu Bạch Xa qua sông Lô; cầu Trắng 2 qua sông Phó Đáy. Tỉnh cũng đang triển khai “công trình đập dâng nước trung tâm thành phố Hà Giang” (nay là phường Hà Giang 1) nhằm tạo cảnh quan và kết nối hai bờ sông, liên thông với Quốc lộ 2 và đường vành đai phía Nam. Những công trình này không chỉ mở rộng không gian kết nối, giải quyết các điểm nghẽn giao thông lâu năm, mà còn rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa, tăng tính an toàn, thúc đẩy du lịch và nâng cao chất lượng đời sống người dân. Đồng thời, việc thực hiện thành công nhiều dự án giao thông quy mô lớn trong điều kiện địa hình phức tạp cho thấy năng lực ngày càng cao của địa phương trong quản lý đầu tư công, tổ chức thi công và huy động nguồn lực xã hội.
Nhìn tổng thể, các kết quả đạt được khẳng định hướng đi “hạ tầng giao thông là trụ cột phát triển” của tỉnh là hoàn toàn đúng đắn. Giao thông hiện đại mở đường cho phát triển đô thị, thúc đẩy hình thành các đô thị động lực; nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; hỗ trợ phát triển du lịch chất lượng cao; tạo điều kiện mở rộng sản xuất nông nghiệp hàng hóa; thu hút các nhà đầu tư chiến lược vào khu kinh tế, khu công nghiệp; mở rộng liên kết với vùng trung du miền núi Bắc Bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng, và kết nối tới Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc). Qua đó, cơ cấu kinh tế của tỉnh có bước chuyển dịch rõ rệt theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ, phù hợp với mục tiêu của nghị quyết. Đối với lĩnh vực du lịch, hạ tầng giao thông phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi để khai thác hiệu quả các khu, điểm du lịch quan trọng của tỉnh như suối khoáng Mỹ Lâm, khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào, danh thắng Na Hang - Lâm Bình, núi Đôi và cổng trời Quản Bạ, cột cờ quốc gia Lũng Cú, dinh thự nhà Vương, phố cổ Đồng Văn, đèo Mã Pì Lèng, hẻm vực Tu Sản, sông Nho Quế, cao nguyên đá Đồng Văn, di tích danh thắng quốc gia ruộng bậc thang Hoàng Su Phì …Việc rút ngắn thời gian di chuyển, kết nối liên vùng với Phú Thọ, Thái Nguyên, Lào Cai góp phần hình thành các tuyến du lịch liên kết, tạo ra chuỗi giá trị du lịch bền vững, qua đó nâng cao sức hấp dẫn của tỉnh đối với du khách trong và ngoài nước. Việc phát triển hạ tầng giao thông cũng mang lại ý nghĩa quan trọng trong bảo đảm quốc phòng - an ninh. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp nâng cao khả năng cơ động của các lực lượng chức năng, phục vụ hiệu quả công tác phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn, giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ chủ quyền biên giới. Đồng thời, sự phát triển của giao thông gắn liền với việc xóa bỏ “vùng lõm” về phát triển, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, tạo sự đồng thuận và củng cố thế trận quốc phòng toàn dân.
Trong giai đoạn tới, để tạo ra những đột phá thực chất trong phát triển hạ tầng giao thông, tỉnh phải tiếp tục tập trung huy động mạnh mẽ các nguồn lực, ưu tiên cho các tuyến kết nối liên vùng và cửa ngõ chiến lược. Trước hết, tuyến từ phường Bình Thuận đi Phú Lương gắn với các nút giao IC5, IC6 của cao tốc Nội Bài - Lào Cai cần được thúc đẩy như một trục giao thương chủ lực, mở đường kết nối trực tiếp với Hà Nội, Lào Cai và toàn vùng Tây Bắc. Cùng với đó, việc triển khai tuyến Phổ Yên (Thái Nguyên) - Tuyên Quang - Lào Cai (đoạn từ đèo Khế đến xã Sơn Dương) sẽ mở rộng đáng kể không gian phát triển liên tỉnh, tạo nền tảng cho sự liên kết vùng bền vững và dài hạn. Song song với các hướng kết nối chiến lược này, tỉnh cũng cần đẩy mạnh hoàn thiện những tuyến đường gắn trực tiếp với cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang, đặc biệt là tuyến Hàm Yên - Chiêm Hóa - Na Hang (ĐT.191). Đây là tuyến huyết mạch có ý nghĩa rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa, nhất là nông - lâm sản từ khu vực phía Bắc của tỉnh, qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế cho các vùng còn nhiều khó khăn. Cùng lúc, để hình thành các trục động lực phát triển mới, tỉnh cần triển khai hiệu quả dự án đường Kim Bình - Tri Phú - Linh Phú kết nối với Chợ Đồn và xã Hùng Lợi tạo nên mạch lưu thông hàng hóa liên tỉnh ổn định. Tuyến Tuyên Quang - Sơn Dương - Thái Nguyên (đoạn hồ Thác Bà - Mỹ Lâm) cũng cần được đẩy nhanh, nhằm khai mở một hành lang liên vùng phục vụ cả công nghiệp lẫn du lịch.
Cùng với phát triển các trục chính, việc nâng cấp đồng bộ các tuyến quốc lộ như QL2C, QL37, QL4 và QL34 là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng năng lực vận tải, giảm áp lực lên các tuyến nội tỉnh và đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hóa quy mô lớn. Đồng thời, tỉnh cần triển khai các tuyến theo quy hoạch giai đoạn 2026 - 2030, gồm đường Minh Ngọc - Mậu Duệ (ĐT.176B), Bắc Quang - Xín Mần (ĐT.177), Yên Bình - Cốc Pài (ĐT.178), Vĩnh Tuy - Yên Bình (ĐT.183) và Đồng Văn - Khia Lía (ĐT.182B), tạo bước mở mới cho phát triển kinh tế cửa khẩu và du lịch sinh thái vùng cao. Trên nền tảng đó, việc mở rộng kết nối giao thông nông thôn, gắn các tuyến huyện, xã với các trục lớn sẽ tạo điều kiện đưa hàng hóa nông - lâm nghiệp vào các thị trường tiêu thụ lớn, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển, nâng cao đời sống nhân dân và thúc đẩy xây dựng nông thôn mới nâng cao.
Trên nền tảng hệ thống đường bộ đó, tỉnh cần đồng thời chú trọng phát triển mạng lưới cầu - đường kết nối trực tiếp với các tuyến cao tốc trên địa bàn để tối ưu hóa khả năng khai thác. Những công trình then chốt như cầu Tân Long, cầu Minh Xuân, cầu Trường Thi qua sông Lô; cầu Bắc Danh - Na Cooc qua sông Gâm; và cầu Sơn Thủy qua sông Phó Đáy cần được ưu tiên nghiên cứu, đầu tư. Khi hệ thống cầu - đường này hoàn thiện, tỉnh sẽ hình thành một mạng lưới liên thông rộng mở giữa trung tâm tỉnh, các vùng sản xuất, khu công nghiệp và các khu du lịch trọng điểm, tạo nên động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội toàn diện.
Nhìn về tương lai, việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông không chỉ là một nhiệm vụ kinh tế - kỹ thuật, mà còn là trục chiến lược để nâng cao vị thế của Tuyên Quang trong khu vực trung du và miền núi Bắc Bộ. Hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại sẽ mở ra những hành lang phát triển mới, thúc đẩy công nghiệp, du lịch, thương mại, logistics và nông - lâm nghiệp, đồng thời tạo môi trường thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư chiến lược, hình thành các khu công nghiệp, đô thị động lực và các tuyến du lịch liên vùng mang tầm quốc gia. Mỗi tuyến đường, mỗi cây cầu, mỗi dự án hoàn thành không chỉ rút ngắn khoảng cách địa lý mà còn mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng sâu, vùng xa với trung tâm, thu hẹp khoảng cách phát triển, nâng cao chất lượng đời sống của người dân và củng cố sự đồng thuận xã hội. Chúng ta có thể khẳng định rằng, hạ tầng giao thông chính là xương sống, là động lực trực tiếp để Tuyên Quang bứt phá về kinh tế - xã hội trong thập kỷ tới, đồng thời là biểu tượng sinh động cho quyết tâm xây dựng tỉnh trở thành trung tâm phát triển năng động, kết nối hiệu quả với các vùng kinh tế trọng điểm trong nước và quốc tế. Với nền tảng lý luận vững chắc, chiến lược phát triển đúng hướng và sự đồng thuận cao của toàn xã hội, Tuyên Quang hoàn toàn có khả năng vươn mình, phá bỏ mọi rào cản về địa hình và khoảng cách, tạo nên một kỳ tích phát triển bền vững, xứng tầm với vị thế chiến lược của tỉnh trong khu vực trung du miền núi phía Bắc và cả nước.
Thạc sĩ Dương Thúy Ngọc
Khoa Lý luận cơ sở
Khoa Lý luận cơ sở
[1],2 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020 - 2025 trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030); tr 20.
Tin mới nhất:
- ❧ Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị -
- ❧ Phát triển nền tảng số, hiện đại hóa, cải cách thủ tục hành chính ở Tuyên Quang -
- ❧ Vận dụng quan điểm "Phát huy vai trò gương mẫu, quyết liệt của người đứng đầu nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực" trong tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ở Đảng bộ xã Tùng Bá, tỉnh Tuyên Quang -
- ❧ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - 95 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển -
- ❧ Anh hùng Lý Tự Trọng - Ngọn lửa bất diệt -