Nghiên cứu - Trao đổi

Những quyết định chiến lược của Trung ương đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954

Ngày Đăng: 24/3/2017 15:45 Lượt xem: 436

          Chiến thắng  Điên Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” cách đây hơn 60 năm là đỉnh cao chói lọi của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại mới dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Góp phần làm nên chiến thắng đó là những quyết định chiến lược của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tạo nên những yếu tố bất ngờ làm xoay chuyển hoàn toàn cục diện của cuộc chiến, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
          Thứ nhất, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thay đổi từ chủ trương chọn nơi địch sơ hở mà đánh (9-1953) đến quyết định nhằm vào chỗ địch mạnh nhất (Điện Biên Phủ) mà đánh.
          Sau chiến thắng Biên giới thu đông 1950, cách mạng Việt Nam giành thắng lợi ở nhiều chiến dịch, giành và giữ thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ. Lúc đó, quân Pháp ngày càng lâm vào thế bị động. Nhằm cứu vãn tình hình, tháng 5/1953 chính phủ Pháp cử tướng Hăng- ri Nava, tổng tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây dương làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Với mục đích giành thế chủ động trên chiến trường, kế hoạch Nava nhanh chóng hình thành, được Hội đồng chính phủ và Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua. Để triển khai kế hoạch, Bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương tập trung lực lượng lớn với quyết tâm giành thắng lợi trên mặt trận quân sự, tạo thế chủ động trên mặt trận ngoại giao.
          Cuối tháng 9/1953, sau khi nắm được nội dung cơ bản của kế hoạch Nava, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Tổng quân ủy họp, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về nhiệm vụ quân sự Đông- Xuân 1953- 1954. Sau khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày phương án tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, ý định của Tổng Quân ủy, Bộ chính trị xác định chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953- 1954 là: sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà lực lượng của địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch và tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ. Phương châm tác chiến là: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt và nhấn mạnh các nguyên tắc về chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo tác chiến là tiêu diệt sinh lực địch; đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt; chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh; giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng.
          Tại hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định lấy Tây Bắc làm hướng hoạt động chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Từ giữa tháng 11/1953, bộ đội chủ lực của ta bắt đầu tiến quân lên Tây Bắc, một bộ phận tiến sang Trung Lào phối hợp chiến đấu với quân giải phóng Lào. Phát hiện thấy ta di chuyển lực lượng chủ lực lên Tây Bắc, Nava quyết định điều lực lượng cơ động sang Trung Lào, đồng thời tăng lực lượng phòng giữ Điện Biên Phủ. Ngày 20/11/1953, quân Pháp mở cuộc hành quân Caxto, đánh chiếm Điện Biên Phủ, từng bước biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Ngày 3/12/1953, Nava quyết định chấp nhận giao chiến tại Điện Biên Phủ, nhanh chóng xây dựng nơi này thành “pháo đài khổng lồ không thể công phá” với ba phân khu, 49 cứ điểm, tổng số binh lực địch lên tới 16 200 tên. Ngoài ra quân Pháp còn xây dựng 2 sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm để đáp ứng nhu cầu tiếp tế, chi viện bằng đường không. Điện Biên Phủ từ chỗ không được nhắc đến trong kế hoạch của Nava cũng như kế hoạch tác chiến Đông- Xuân 1953- 1954 của ta, lại nhanh chóng chở thành tâm điểm trong kế hoạch điều hành của cả hai bên.
          Trước những diễn biến mới của tình hình, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp khẩn cấp, sau khi nghe Tổng Quân ủy báo cáo, đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy, trong đó tập trung các đơn vị chủ lực phối hợp mở đợt tiến công mạnh mẽ lên các hướng gồm: Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, Tây Nguyên. Đây là những nơi lực lượng địch mỏng yếu, sơ hở nhưng lại là địa bàn chiến lược Pháp không thể bỏ qua. Năm đòn tiến công chiến lược cùng hoạt động tấn công chống địch càn quét, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, phá sản âm mưu tập trung lực lượng cơ động của Nava ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, buộc chúng phải phân tán khắp nơi để đối phó với ta.
          Như vậy, từ chủ trương chọn nơi địch sơ hở mà đánh (9/1953) đến quyết định nhằm vào chỗ địch mạnh nhất (Điện Biên Phủ) mà đánh là một chủ trương kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo và kịp thời, là quyết tâm rất lớn, thể hiện tầm nhìn chiến lược sắc sảo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự lựa chọn đó phía ta phát huy được chỗ mạnh, hạn chế được chỗ yếu; đồng thời, hạn chế mặt mạnh, khoét sâu điểm yếu của địch.
          Thứ hai, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định chuyển hướng chiến lược, phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Đây là một chủ trương kịp thời, chính xác, thể hiện sự quán triệt tư tưởng chủ đạo cơ bản của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Đánh chắc thắng”.
          Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp, tại hội nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”[1]. Theo đó, trên khắp cả nước, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta dốc sức tổ chức lực lượng, huy động sức người, sức của để giành thắng lợi cho trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ.
          Ngày 01/01/1954, tại cuộc họp Bộ Chính trị chỉ định cơ quan lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch, triển khai kế hoạch điều động lực lượng lên Tây bắc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Tư lệnh mặt trận, Bí thư Đảng ủy, trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh. Không chắc thắng không đánh”. Ngày 14/01/1954, tại hang Thẩm Púa, cách Tuần Giáo 15 km có cuộc họp quan trọng về quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phổ biến lệnh tác chiến bí mật với phương án “đánh nhanh, thắng nhanh”và ngày nổ súng dự định là ngày 25/01/1954. Phương án này đặt kế hoạch chiếm Điện Biên Phủ trong hai ngày ba đêm bằng tiến công ồ ạt đồng loạt, thọc sâu đã được phê duyệt.
          Tuy nhiên, sau khi xem xét tình hình, Đảng ta nhận thấy để giành thế chủ động trên chiến trường, qua phân tích, đánh giá chỗ mạnh, yếu của ta và địch, thì phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” khiến cho ta gặp nhiều bất lợi đó là: quân đội ta chưa có kinh nghiệm đánh tập đoàn cứ điểm, vì vậy nếu đánh nhanh thắng nhanh sẽ không nắm chắc được phần thắng lợi. Vì vậy, 17 giờ trước khi nổ súng, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp quyết định thay đổi cách đánh từ phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang phương án “đánh chắc, tiến chắc”.
          Việc chuyển phương châm tác chiến chiến dịch lúc tình hình địch đã thay đổi, lực lượng của chúng đã tăng cường, hệ thống phòng ngự được tổ chức vững chắc, là một chủ trương kịp thời chính xác theo đúng quan điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là “đánh chắc thắng”. Đối với Bộ chỉ huy chiến dịch, đây cũng là một quyết định khó khăn nhất trong những quyết định về chủ trương tác chiến của ta trong Đông – Xuân 1953-1954.
          Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, cả hậu phương hùng hậu, từ vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng ở Tây Bắc, đến vùng du kích và căn cứ du kích đồng bằng Bắc Bộ đã tập trung mọi sức lực, vật chất cho mặt trận Điện Biên Phủ. Sau khi mọi công tác chuẩn bị đã hoàn thành, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng mở màn cho chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm “Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn” liên tục chiến đấu, trải qua 3 đợt tiến công quân ta đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp trong chiến tranh xâm lược Đông Dương, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954), chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
          Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đã cho chúng ta thấy rõ hơn sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là những quyết định chiến lược vào những thời điểm quan trọng của lịch sử đã tập hợp được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy cao độ ý chí quyết tâm tiêu diệt địch, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu dũng cảm, đầy mưu trí của bộ đội ta trên chiến trường để làm lên chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” , chiến thắng Điện Biên Phủ đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa trên toàn thế giới.

 
Thạc sĩ Đặng Quốc Tuyên
Trưởng phòng Đào tạo
 

[1]  Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, H.1996, Tr.202

Tin mới nhất:

Thông tin lý luận và thực tiễn

TUYÊN TRUYỀN

Liên kết web

Đếm số lượng truy cập

Tổng số lượt truy cập: 8289737

Đang Online : 3353